Thuốc BVTV rất độc nguồn gốc từ TQ la liệt trên thị trường Tăng cường thẩm tra giám sát và xử phạt thật nghiêm các đối tượng vi phạm qui định về nhập, kinh doanh, sử dụng thuốc BVTV, kể cả các cán bộ quản lý nếu vi phạm
Từ nhiều năm nay Việt Nam đã vận dụng thành công các chương trình như Quản lý dịch hại tổng hợp (IPM), 3 giảm 3 tăng, 1 phải 5 giảm, sinh sản lúa theo công nghệ sinh thái.
Tỉ dụ như quản lý ở các cửa khẩu còn khó khăn do nạn buôn lậu hàng hóa, trong đó có chủng loại thuốc BVTV. Ông nghĩ sao? Đúng như vậy, việc quản lý thuốc BVTV hiện tuy ngành BVTV đã cố kỉnh nhưng vẫn còn nhiều bất cập. Từ đó các kiến nghị sẽ đưa vào Thông tư, chỉ dẫn đăng ký, khảo nghiệm, đánh giá, phê duyệt, cấp phép dùng thuốc BVTV, tìm ra các lỗ hổng về màng lưới thuốc BVTV.
Là một người từng có nhiều năm công tác trong lĩnh vực BVTV, ông đánh giá thế nào về thực trạng này? Thị trường thuốc BVTV bây chừ tương đối phức tạp, số lượng tên thuốc thương mại quá nhiều (hơn 3. Từ đó có những qui định về việc đăng ký, khảo nghiệm, phê chuẩn và cấp Giấy phép sử dụng thuốc BVTV đối với Việt Nam ta.
Nếu cơ quan chuyên ngành giải thích được vấn đề này thì sẽ có cơ sở để quản lý thuốc BVTV một cách cụ thể, khoa học và việc góp ý mới thiết thực hơn. Phần các điều luật: Các công ty sản xuất không được vì bí ẩn thương mại, công nghệ mà không ban bố đầy đủ các thành phần hoạt chất và phụ gia cho trọng tâm kiểm soát chất độc quốc gia; Phải được bảo hiểm bệnh nghề với người tiếp xúc với thuốc BVTV; Tăng thuế suất sản xuất kinh dinh thuốc BVTV 10% từ 1/5/2014 và chuyển tiền đó cho chương trình ECOPHYTO; Phạt 3 năm tù và 300.
Số lượng thuốc BVTV quá nhiều dẫn đến sự lẫn lộn, tạp nhạp, bát nháo. Lúc đầu có thể viện trợ cho đội dịch vụ BVTV để cho dân cày quen dần, sau đó nông dân có thể tình nguyện trả tổn phí khi đã quen.
Kiến thức về thuốc BVTV của nông dân cũng được tăng lên rõ rệt, dịch sâu bệnh chính trên lúa được đẩy lùi, góp phần bảo vệ tốt mùa màng, đặc biệt là trên cây lúa. Trong trường hợp này, các loại thuốc không bảo đảm chất lượng sẽ bị loại ra, ít có cơ hội bán trên thị trường, và dần dần sẽ được loại bỏ, kết hợp với thanh tra để xử phạt, cấm các thuốc độc hại lưu hành trên thị trường.
Thị trường thuốc BVTV bừa bãi với nhiều chiêu trò xí gạt người dân một phần do chế tài xử phạt của chúng ta quá thấp. Xem xét để kết liên với các Cty, Tập đoàn nước ngoài để có thể tự sản xuất một số loại thuốc BVTV tại Việt Nam, góp phần giảm giá thành thuốc BVTV, chủ động kiểm soát, đánh giá chất lượng và các chỉ tiêu kỹ thuật - kinh tế thích hợp với các loại cây trồng trong điều kiện nước ta.
Nên chăng, có thể tổ chức Hội thảo khoa học về vấn đề mà Báo NNVN đã nêu, có sự tham dự của nhiều đại diện như nhà quản lý, doanh nghiệp, dân cày, nhà nhập cảng về định hướng sử dụng thuốc BVTV và các đề xuất trước mắt, lâu dài. Mặt khác, cần phải tăng cường vai trò của đội chuyên về BVTV trước đây đã tồn tại và phát huy tốt vai trò, sứ mệnh bảo vệ cây trồng, như có đội chuyên phun thuốc, dùng máy phun thuốc, có cơ chế trợ giá cho nông dân đứng ra làm dịch vụ phun thuốc, mua máy phun thuốc, tăng cường vai trò cán bộ BVTV cấp xã, huyện, dự trù dự báo, phun đúng thuốc và do tổ BVTV thực hành, nông dân trả phí.
Nguyên cớ thì có rất nhiều, nhưng cơ chế chính sách vẫn là điều cần phải suy nghĩ. Chúng ta đang yếu và thiếu ở chỗ nào, thưa ông? Theo tôi, những người làm công tác quản lý, ban hành văn bản nên tham khảo các nước trong khu vực và xu thế dùng thuốc BVTV trên thế giới để thẩm tra lại danh mục thuốc BVTV được phép dùng ở Việt Nam.
Qua điều tra của NNVN cho thấy sự bát nháo của thị trường thuốc BVTV như hiện thời phần nhiều là lỗi ở cơ chế. 000 Euro với hành vi lưu thông thuốc BVTV cấm; Phạt 7 năm ốc 700. Qui trình kết nạp Hồ sơ cho đến phê chuẩn, khảo nghiệm, cấp phép. Có thể duyệt y các hoạt động trong Chương trình Nông thôn mới, Cánh đồng mẫu lớn để hồi phục đội chuyên BVTV và có đánh giá, rút kinh nghiệm cho hiệp với thực tại hiện nay
000 Euro với hành vi dùng thuốc BVTV cấm dùng; Phạt 5 năm ốc 500. Xin cảm ơn ông! Tóm lược Dự luật 756 ngày 15/7/2013 của Thượng Viện Cộng hòa Pháp về hạn chế thuốc BVTV Phần khái luận: Sự hiểm nguy của thuốc BVTV đối với sức khỏe con người đang bị đánh giá thấp, nhất là trong dài hạn; Việc giám sát chỉ mới chú ý đến những tổn thương trực tiếp mà chưa đề cập đến ảnh hưởng với hệ nội tiết; Xác nhận của Viện Y tế và nghiên cứu Y khoa nhà nước INSERRM (Pháp) có mối liên hệ giữa phơi nhiễm nghề nghiệp thuốc BVTV với các bệnh Parkinson, ung thư tuyến tiền liệt, ung thư máu; Cảnh báo hiểm, tuyên truyền của các công ty sinh sản và phân phối thuốc BVTV chưa tạo được mối quan tâm thỏa đáng của cộng đồng; Chương trình nhà nước ECOPHYTO với đích giảm 50% lượng thuốc BVTV không đạt.
Thậm chí có nhiều cơ sở kinh dinh thuốc BVTV ưng nộp phạt để thả cửa tự tung tự tác. Nếu các loại thuốc BVTV gần nhau về công thức phối trộn (cần có Hội thảo hoặc Hội đồng khoa học coi xét đề xuất chừng độ nào) thì nên giảm dần các đầu mục thuốc (tên thương mại). Cụ thể là việc các cơ quan nhà nước cho phép doanh nghiệp đăng ký hoạt chất, tên sản phẩm quá tràn lan.
Có thể đưa vào các chương trình giáo dục, tập huấn, tuyên truyền, qua các dụng cụ thông tin đại chúng, duyệt y các hội để khởi động phong trào và có đánh giá, khen thưởng kịp thời. Thị trường thuốc BVTV khá béo bở nên nhiều công ty dịch vụ thuốc BVTV được thành lập, ra đời.
Có lẽ cần phải có chương trình giáo dục người Việt Nam tự trọng với hành vi của mình, xúc tiến mạnh hơn văn hóa mình vì mọi người, không nên có nghĩ suy vẫn biết là thuốc độc hại cho người tiêu dùng, nhưng vẫn dùng trong sản xuất, kinh doanh. TS Nguyễn Văn Tuất (ảnh) , Phó Giám đốc Viện khoa học Nông nghiệp Việt Nam (VAAS), nguyên Viện trưởng Viện BVTV cương trực: thực tại thậm chí còn bát nháo hơn.
Cần rà soát lại các cơ quan nào tham gia trong thời gian vừa qua? căn do nào mà thuốc BVTV cho phép đăng ký nhiều như vậy? Phải tìm ra căn do và sự cấp thiết có các cơ quan khác dự vào chuỗi đánh giá này hay không? Nói tóm lại là phải làm nhiều cách để việc đăng ký đi vào qui lát hơn, không thể để vấn đề như Báo NNVN đã nêu ra vừa qua.
Phải biết được nguyên do do tuyên tuyền kém hay do dân trí, hay do công tác chỉ đạo còn yếu kém, hay do kỹ thuật, thuốc BVTV sinh học chưa có sẵn… thì mới giải quyết vấn đề được. 000 Euro với hành vi buôn bán thuốc BVTV cấm có tổ chức. Coi xét để thanh tra chuyên ngành thực hành tốt hơn nữa ở các cấp. Các cơ sở kinh dinh dịch vụ thuốc BVTV phải có Bản cam kết với chính quyền địa phương và ngành BVTV.
Để có thể đưa ra một biện pháp làm giảm sự bát nháo của thị trường thuốc BVTV hiện nay theo ông cần phải làm gì? đầu tiên, như đã đề cập, cần tổ chức hội thảo quốc gia, mời các cán bộ quản lý, các chuyên gia về thuốc BVTV, cán bộ ở cửa khẩu, các đại lý thuốc BVTV các cấp, doanh nghiệp kinh doanh, dịch vụ thuốc BVTV, các nhà nghiên cứu, Hội nghề nghiệp liên can, kể cả mời các chuyên gia nước ngoài dự để góp cho nước ta trong việc làm sao sử dụng tốt hơn vấn đề thuốc BVTV.
Theo dõi khá kỹ loạt bài Ma trận thị trường thuốc BVTV trên NNVN (từ ngày 18-20/9), PGS. Thẩm tra lại hệ thống mạng lưới dịch vụ thuốc BVTV, có sự tham dự của chính quyền địa phương, coi việc dùng thuốc BVTV độc hại, không tuân qui định của ngành là vi phi pháp luật, được xử lý nghiêm minh.
Thưa ông, rõ ràng bức tranh thị trường thuốc BVTV hiện giờ rất bát nháo. Nhận thức của nông dân chưa đồng đều, giá thành sản xuất các loại thuốc BVTV thế hệ mới còn cao… Đấy cũng là điều kiện để các loại thuốc BVTV có mức độ độc cao, kém chất lượng vẫn được lưu hành, nhất là các công ty siêu nhỏ, như Báo NNVN đã nêu.
000 loại). Điều cần thiết nhất là cần phải kiểm tra lại các nhóm thuốc, loại thuốc độc hại đối với môi trường, con người, giảm danh mục tên thương nghiệp, coi xét hạn cho phép dùng thuốc BVTV trên cương vực Việt Nam. Các chương trình IPM cũng được ứng dụng trên một số cây hàng hóa khác… Mặc dù vậy, lượng thuốc BVTV sử dụng giờ vẫn ở mức cao.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét