Thứ Ba, 15 tháng 10, 2013

Đổi mới thi không có nghĩa là phá cách bỏ thi đại học.

Trong đua sẽ vô cùng tránh việc rà soát trí tưởng, soát sự “trả bài” thuần túy; tăng cường khả năng ứng dụng, hiểu tri thức của HS

Đổi mới thi cử không có nghĩa là bỏ thi đại học

Ông có thể cho biết sự thay đổi các nội dung này trong đề án?    - Việc đổi mới chương trình SGK, thi tốt nghiệp THPT và tuyển sinh đại học thì sau năm 2015 chúng ta mới thực hành.

HS có thể chọn lọc học các môn thể thao trong số các môn như: Chạy, điền kinh, bóng bàn, cầu lông, bóng chyền, bóng rổ, nhảy cao, bóng đá, bơi lội… Đối với các môn học về mỹ thuật, HS có thể chọn lọc học vẽ, nhạc, ca hát hay múa… Việc tạo dựng một môi trường mở trong GD là vô cùng cấp thiết, để tạo cho các em tiếp cận theo đúng gu, tạo nên hiệu quả đào tạo cao hơn, bản tính hơn.

Một mặt của GD là quá nặng và thừa, mặt khác lại thiếu. Từ trước tới nay, mỗi trường, mỗi cơ sở đào tạo thường “đóng khung” trong khuôn viên của mình, ít có sự liên thông, phối hợp với gia đình và từng lớp.

Chương trình học đi kèm SGK mới sau năm 2015 chủ trương giảm mạnh các đầu môn học để mỗi học kỳ HS học cùng một lúc không quá 8 môn học. Không có chiến lược phát triển dài hơi và đầu tư đúng hướng thì lâm vào cảnh ngộ này là điều tất yếu. Muốn phát triển được thì cơ sở GD NCL phải khôn xiết để ý nâng cao chất lượng đào tạo, đặc biệt là khối GD chuyên nghiệp và CĐ, ĐH.

Bài toán tổng thể đổi mới thi cử, tuyển sinh ĐH sẽ được đặt ra một cách căn cơ, kỹ lưỡng trong thời kì tới. Các chương trình không liên thông với nhau.

Ảnh: Q. Để DN không quay lưng với sinh viên ngoài công lập     - Vai trò của giáo dục ngoài công lập (NCL) đã được khẳng định. (Đề xuất của Bộ GDĐT trong đề án đổi mới giáo dục). Sự tích hợp để gắn kết sẽ được chú trọng. Dùng được kết quả xác nhận tốt nghiệp trung học phổ thông làm cứ cho tuyển sinh của các cơ sở giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học. Đổi mới SGK, thi tốt nghiệp THPT sau năm 2015     - Dư luận đang đặc biệt quan tâm tới việc đổi mới chương trình SGK, thi tốt nghiệp THPT và tuyển sinh đại học.

Về liên thông giữa các phương thức đào tạo, lâu nay, Chẳng hạn giữa GD phổ quát với dạy nghề, giữa trung cấp chuyên nghiệp với trung cấp nghề luôn có khoảng cách. Trong đề án đổi mới GD, quốc gia có một số định hướng rất cụ thể cho GD NCL. Không biết tự chủ, tự chủ sai qui định đã từng xảy ra, dẫn đến tình trạng đáng buồn ở một số cơ sở GD.

Tuy nhiên, bây chừ phần nhiều các trường NCL lại đang lâm vào cảnh ngộ vô cùng khó khăn, nhất là ở bậc cao đẳng, đại học (CĐ,ĐH). Hay như việc GD thể chất, hoặc thẩm mỹ cho học trò: không thể bắt các em buộc chỉ học một số môn khăng khăng, cứng nhắc mà phải cho HS được quyền chọn lọc những môn mình thích, hợp.

Điều đó sẽ được chỉnh đốn. Đề án không nói bỏ thi đại học. Chẳng hạn cho HS đi tham quan di tích cách mạng, tiếp xúc gặp gỡ với nhân chứng lịch sử … sẽ sinh động và tốt hơn rất nhiều so với việc chỉ truyền thụ tri thức cho các em qua sách vở, không có thực tại. Nguồn lực nhà nước cho giáo dục cần tụ hợp cho cho các trường trọng điểm, trường sư phạm, cho những ngành nghề mà quốc gia đặc biệt cần, cho các đối tượng chính sách, vùng miền khó khăn.

Chương trình GD của họ ngay từ bậc trung học cơ sở đã gắn bó rất chặt chẽ với cây cà phê. Quan điểm của Đảng mà cụ thể ở trong đề án này là phải đảm bảo 3 nguyên lý giáo dục được kết hợp chặt chịa: Nhà trường, gia đình và tầng lớp.

Điều đó là sai lầm. Nên chi phải cho các trường một “biên độ” để có thể đi sâu phát huy thế mạnh, đặc thù của họ.

Về đổi mới thi tốt nghiệp THPT và tuyển sinh ĐH, Bộ GDĐT đang tiến hành nghiên cứu rất cụ thể, căn cơ. Có bỏ kỳ thi đại học hay không?     - Thưa ông, còn việc tăng cường quyền tự chủ cho các trường, nhất là trong đào tạo, đua?     - Đề án xác định quyền tự chủ của các trường, cơ sở GD về: Bộ máy, biên chế, tự chủ về chương trình đào tạo, tự chủ về tài chính… Nhưng giải bài toán thực hành quyền tự chủ này không phải dễ dàng.

Một gia đình mà cha mẹ không gương mẫu trong cách sống thì không thể tác động tốt đến giáo dục hình thành nhân cách con cái. Đã là chương trình khung quốc gia thì tất tật các cơ sở GD, các bậc học đều phải theo. Đổi mới thi cử phải theo hướng thiết thực, hiệu quả, có thể Sử dụng kết quả học tập THPT để làm một trong những cứ cho các cơ sở GD đại học tổ chức xét tuyển hoặc thi tuyển theo ngành nghề đào tạo.

Cố nhiên, Bộ GDĐT sắp tới sẽ chú ý hơn trong khâu xác định các chỉ tiêu tuyển sinh, hoặc đổi thay phương thức tuyển sinh cho phù hợp. Sẽ có một chương trình đào tạo khung, nhưng mỗi cơ sở đào tạo sẽ có chương trình đào tạo đặc thù riêng: Đặc thù về ngành nghề, đặc thù về mối quan hệ với các cơ sở sinh sản kinh dinh.

Định hướng mà đề án hướng tới là giáo dục NCL chất lượng cao. Nhiều nước trên TG đã làm rồi. Bậc THCS từ 13 môn học và 3 hoạt động giảm xuống còn 8 môn học và 4 hoạt động. Bây chừ, phải xây dựng các chương trình liên thông với nhau để khi học xong THCS cũng có thể bước sang học nghề, hoặc từ học nghề tiếp phấn đấu để học lên bậc ĐH.

Có một thực tế, nhiều người cho rằng tự chủ là làm gì cũng được. Đây là tư tưởng định hướng rất lớn. Đó là điểm nhấn rất quan yếu của đề án đổi mới GD lần này. Điều đó đã dẫn đến thực tế: Cơ quan, DN, tổ chức từ khước kết nạp sinh viên tốt nghiệp các trường NCL. Trên thế giới, ví dụ Colombia, ở một số vùng có chương trình GD “Nhà trường và cà phê”, do tại các vùng này, việc trồng, chế biến, kinh doanh xuất khẩu cà phê là thế mạnh.

Thí dụ, thầy NCL cũng sẽ được hưởng các chính sách như GV công lập; sinh viên NCL cũng được hưởng các chế độ chính sách ưu tiên, ưu đãi (học bổng, con em gia đình chính sách, người có công…) như đối với các trường công lập.

- Dư luận đặt câu hỏi: Nếu giao quyền tự chủ cho các trường trong tuyển sinh, bỏ kỳ thi ĐH thì sẽ dễ dẫn đến thụ động, tạo “cơ hội” cho người có tiền, trong khi khép lại cánh cổng ĐH với rất nhiều HS nghèo? Ông lý giải điều này ra sao?     - Đề án khẳng định sẽ đổi mới phương thức tuyển sinh đại học theo hướng phối hợp kết quả học tập phổ biến và đề nghị của ngành đào tạo.

Số môn học trong chương trình phổ thông sẽ bớt đi, chẳng thể có quá nhiều môn học như hiện thời. Cụ thể ở bậc tiểu học từ 11 môn học và 3 hoạt động hiện giờ giảm xuống còn từ 3-6 môn học và 4 hoạt động sau năm 2015. Trong mở về nội dung, Nhà nước sẽ có chương trình khung nhà nước. Ông Bùi Mạnh Nhị - Vụ trưởng Vụ TCCB, Bộ GDĐT. Giáo dục mở cũng đề nghị cho HS xúc tiếp với thực tại cuộc sống tầng lớp, chứ chẳng thể cứ mãi nhồi nhét lý thuyết suông.

Có trường kết hợp đào tạo với các DN, vùng KT trọng điểm, ngành nghề mũi nhọn rất tốt; nhưng cũng có nhiều trường chưa làm được điều đó. Ở giáo dục đại học, giáo dục chuyên nghiệp cũng vậy. Vì sao trong khi khối GD phổ quát NCL cuộn rất lớn HS thì khối CĐ, ĐH lại không? Tại sao ở Hà Nội và TP HCM, HS đăng ký học ở trường NCL chất lượng cao rất khó (trường Đoàn Thị Điểm ở HN…; trường Nguyễn Khuyến, Trương Vĩnh Ký ở TP HCM…)? Chính vì các trường NCL đó đã hết sức chú trọng đến chất lượng đào tạo.

Ông có thể lý giải rõ hơn điều này?    - Khái niệm “mở” trong GD ở đây rất rộng, gồm mở về nội dung, về hình thức và phương thức đào tạo. Nhu cầu đầu ra của bậc học phổ biến có cần HS phải có kiến thức chuyên sâu như vậy không? GD phổ quát hiện rải ra quá nhiều môn nhưng đến khi cần phân loại, “phân luồng” HS lại quá khó để thực hiện.

Bậc THPT từ 13 môn học và 5 hoạt động giảm xuống còn từ 3 môn học buộc, 3 môn học tự chọn và 4 hoạt động (lớp 11 và lớp 12). Lịch trình thực hành liên thông phải rõ để HS không phải học lại những gì đã học ở bậc dưới; và biết muốn học tiếp lên bậc cao hơn thì phải làm gì, phải đảm bảo cần trang bị những gì? Nói tóm lại, liên thông là tạo một “sợi dây” hay đường dẫn để đi từ bậc học này đến bậc học kia, từ phương thức đào tạo này sang phương thức đào tạo khác… nhưng đích chung cục phải đạt tới là thực học và thực nghiệm.

- Xin cảm ơn ông!     bây giờ, chương trình và SGK hiện hành buộc học sinh trong cùng một thời điểm (trong một học kỳ) phải học quá nhiều môn học và các hoạt động. Uy tín, chất lượng đào tạo của các trường đã tạo được niềm tin cho XH chưa? Đối chiếu lại các tiêu chí mà các trường khi thành lập đã cam kết; đối chiếu thực lực với quy mô tuyển sinh, các trường đã thực hiện đúng chưa? Thị trường LĐ luôn biến động, nhưng bản thân các trường NCL lại chỉ chú trọng đến đào tạo một số nghề “hót” như: Kế toán, tài chính, nhà băng, quản trị kinh doanh… Đến khi thị trường thay đổi, dư thừa LĐ các ngành này thì các trường trở tay không kịp.

Trong khi quốc gia chưa đủ điều kiện (và ngay cả khi đủ điều kiện) cũng đều phải chú ý đến XHH giáo dục. Ngoài GD phổ thông, đề án đặc biệt nhấn mạnh đến GD nghề và GD đại học.

Thứ hai là phải “mở” về hình thức đào tạo. Nếu đề nghị phải tăng chất lượng đào tạo, đáp ứng đủ một số tiêu chí mới cho tồn tại thì khác nào đẩy họ tới chỗ càng khó khăn hơn? ý kiến ông như thế nào?     - Tôi xin đặt lại câu hỏi: vì sao có trường NCL tiêu chuẩn tuyển sinh rất cao (trường ĐH tư thục Thăng Long- HN; trường ĐH Hoa Sen- TP.

Trước đây có ngành khoa học nào thì trong nhà trường có môn học đó. Giờ, ở Việt Nam, phần đông vẫn cho rằng việc học tập của các em HS phụ thuộc hoàn toàn vào nhà trường.

Nhưng song song chương trình khung đó cũng dành “phần mềm” để mỗi vùng miền, mỗi cơ sở GD có thể dựa vào đặc điểm địa phương, hay lứa tổi, tâm sinh lý học sinh… để cụ thể hóa, phát triển các chương trình đào tạo cho hợp.

C  Chuyển sang nền giáo dục mở, linh hoạt     - Thưa ông, nội dung “phải chuyển hệ thống giáo dục cứng nhắc sang hệ thống giáo dục mở, linh hoạt bảo đảm liên thông giữa các trình độ và phương thức đào tạo” được đề án nhấn mạnh.

Đề án xác định chương trình phải tinh giảm, cơ bản, đương đại, có sự tích hợp cao ở các lớp dưới, phân hóa dần ở các lớp trên, đặc biệt là phân hóa mạnh ở 3 niên học THPT.

Vậy định hướng phát triển giáo dục NCL và giải quyết khó khăn cho khối GD này ra sao, thưa ông?     - Về giáo dục NCL, Trung ương xác định phải đồng đẳng với GD công lập. HCM) phải gạt bớt số người đăng ký học đi, trong khi các trường khác thì HS đăng ký tuyển rất ít? Lâm vào khó khăn, bản thân các trường NCL phải tự nhìn lại mình.

Nhưng về chủ trương thì dứt khoát phải đổi mới theo hướng rà năng lực học trò, tăng cường vận dụng kiến thức vào giải quyết cảnh huống, sự việc cụ thể, thiết thực, hiệu quả. Có tháo gỡ khó khăn cho trường NCL?     - Trong tình cảnh phải “vơ bèo gạt tép” cho tuyển sinh đầu vào, khó khăn đối với các trường CĐ, ĐH ngoài công lập đang rất lớn.

Đó là điều mà bản thân công tác quản lý GD cũng như cơ sở GD NCL phải trang nghiêm nhóng, rút kinh nghiệm để chỉnh đốn. Còn đổi mới cụ thể như thế nào, các bước thực hiện ra sao thì Bộ GDĐT sẽ có nghiên cứu phương án, xin ý kiến rộng rãi của người dân; song song phải tham khảo kinh nghiệm quốc tế và căn cứ trên thực tế VN.

Theo thống kê của một số nhà khoa học giáo dục trên thế giới, 60% thành tích học tập của HS phụ thuộc vào gia đình.

Có một thực tiễn, trong khối giáo dục ĐH và TH chuyên nghiệp, phần lớn các trường NCL chưa có chất lượng cao, thậm chí nhiều trường NCL chưa thực hiện đúng cam kết khi thành lập, nhất là cơ sở vật chất và đội ngũ giảng dạy. Tôi lấy ví dụ: không thể đòi hỏi HS ở các vùng miền núi, vùng khó khăn phải học chương trình y hệt như HS thành phố. Có trường lại không biết tự chủ thì mình phải làm những gì, không biết phát huy trí óc tập thể, thực hành dân chủ… thành thử tự chủ biến thái thành ý chí của một vài người! Tự chủ của các cơ sở GD thực ra là ràng buộc rất lớn về nghĩa vụ đối với từng lớp, đối với cơ quan quản lý.

Tôi nhất trí với ý kiến của một số lãnh đạo các trường ĐH rằng “tự chủ thì rất mừng nhưng cũng rất lo”.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét