Thứ Tư, 18 tháng 9, 2013

Vẫn trẻ ranh những hành khúc bất hủ.

Tượng đài âm nhạc Lưu Hữu Phước được vun đắp bởi những hành khúc bất hủ, nên ít người biết rằng Lưu Hữu Phước thuở hai mươi viết nhiều ca khúc trữ tình

Vẫn rực rỡ những hành khúc bất hủ

Và chẳng bao lâu sau, ngày Nam Kỳ khởi nghĩa 23-8-1945, Lưu Hữu Phước đã đứng chung với niềm vui của đồng bào mình bằng bài hát “Khúc khải hoàn”.

Vẫn mạch xúc cảm ấy, sau khi ra Hà Nội học Đại học Y Dược, Lưu Hữu Phước đấu có thêm các tác phẩm trứ danh như “Ải Chi Lăng”, “Hội nghị Diên Hồng”, “Hờn sông Gianh”, “Tiếng gọi thanh niên”, “Hồn tử sĩ”… Năm 1944, Lưu Hữu Phước dự Mặt trận Việt Minh và quyết định từ giấc mơ thầy thuốc để trở lại miền Nam đương đầu.

Bên cạnh vài bài khẩn thiết mong ngóng đôi lứa như “Trên sông Hương” hay “Ai nhớ ai”, nhạc sĩ Lưu Hữu Phước đã gửi gắm một mối tình chia cách nhỡ nhàng của mình qua bài hát “Hương giang dạ khúc”.

Thế nhưng, hãy lưu ý, Lưu Hữu Phước không chỉ có hành khúc. Ngoài những công trình khoa học chuyên sâu về âm nhạc dân tộc, Lưu Hữu Phước còn có nhiều vở ca kịch giàu biểu cảm như “Tục lụy”, “Phá mưu bù nhìn” hoặc “Diệt sói lang”. Có lẽ đến một lúc nào đó, công chúng không chỉ suy tôn cố Giáo sư - Viện sĩ Lưu Hữu Phước bằng những hành khúc rộn ràng hùng tráng, mà còn nhớ về nhạc sĩ Lưu Hữu Phước thời trai trẻ lãng mạn từng có phút giây xao xuyến một mỹ nhân cố đô khi viết “Hương giang dạ khúc” với giai điệu đắm đuối: “Làn hương thu mờ trong bóng chiều, vờn run ánh ngà, nhẹ đưa đưa xa… Làn hương ơi, làn hương mờ xóa bóng ai yêu kiều trong mơ…"     Ngoa ngôn một chút, có thể khẳng định Lưu Hữu Phước là ông vua loại thể hành khúc ở Việt Nam.

Tức thị, sự nghiệm âm nhạc của Lưu Hữu Phước đã được tốp ngay từ khi còn ngồi ghế trường College nơi quê nhà. Chính thời đoạn, Lưu Hữu Phước đã hứng khởi viết nhiều ca khúc kêu gọi ý thức nguồn cội cho tuổi trẻ mà vượt trội là “Bạch Đằng giang” được sáng tác vào năm 1940. Ở Sài Gòn những năm cuối thập niên 30 của thế kỷ 20, Lưu Hữu Phước đã kết bạn tri kỷ với hai người bạn đồng môn Huỳnh Văn Tiểng và Mai Văn Bộ tạo thành nhóm Huỳnh Mai Lưu nức danh.

Có nhẽ thế hệ sau ngầm hiểu với nhau một cách đơn giản rằng, chính phép cộng giữa nhân kiệt thiên tính và tinh thần yêu nước đã giúp Lưu Hữu Phước viết nên những hành khúc sôi nổi và hối thúc như “Lên đàng”, “Hội nghị Diên Hồng”, “Tiến về Sài Gòn”… Nhìn lại lịch trình sáng tạo mải mê và tâm huyết của nhạc sĩ Lưu Hữu Phước thật không khó để nhận ra một điều thúc: trong hành trang mà cậu học sinh 16 tuổi Lưu Hữu Phước rời Cần Thơ lên Sài Gòn để theo học Trường trung học Trương Vĩnh Ký đã có bản thảo ca khúc đầu tay “Non sông gấm vóc”.

Hầu hết các nhà nghiên cứu đều có chung nhận định, 10 năm từ 1965 đến 1975 là khoảng thời kì Lưu Hữu Phước sáng tác nhiều nhất và hay nhất, mà công chúng có thể kể “Dưới cờ Đảng vẻ vang”, “Giờ hành động”, “Bài hát giải phóng quân”, “Hành khúc giải phóng”, “Xuống đường”… Đặc biệt, bằng tâm tư của một nhân tài lớn, Lưu Hữu Phước đã viết trước “giải phóng miền Nam” và “Tiếng về Sài Gòn” để hai ca khúc này theo chân những đoàn quân hẳm hở đi đến ngày 30/4 đại thắng! Về đề tài Bác Hồ, nhạc sĩ Lưu Hữu Phước có hai ca khúc viết cách nhau 22 năm nhưng đều có sức lan tỏa vào đời sống nhân dân.

Năm 1947, khi lần trước tiên được gặp Bác Hồ trên đất Bắc, nhạc sĩ Lưu Hữu Phước sáng tác “Lãnh tụ ca” có phần lời viết chung với nhà thơ Nguyễn Đình Thi.

Dù cáng đáng nhiều vai trò quản lý bận rộn, nhưng âm nhạc của ông cũng vang lên với nhiều đề tài khác nhau như “Thiếu nhi thế giới liên hoan”, “Cả cuộc đời về ta” hay “dân cày vươn mình”.

Kiên tâm ấy được ông bộc lộ qua ba sáng tác ban bố ngày rời Hà Nội là “Xếp bút nghiên”, “Mau về Nam” và “Gieo ánh sáng”.

Năm 1969, khi ở miền Nam nghe tin Bác Hồ mất, nhạc sĩ Lưu Hữu Phước sáng tác “Tình Bác sáng đời ta” có phần lời viết chung với nhà thơ Diệp Minh Tuyền.

Sau 20 năm công tác ở Hà Nội, Lưu Hữu Phước quay về miền Nam giữ chức Bộ trưởng Văn hóa của Chính phủ cách mệnh trợ thì miền Nam Việt Nam. Hành khúc của Lưu Hữu Phước không chỉ làm cột trụ cho âm nhạc nước nhà, mà còn có ảnh hưởng sâu rộng đến phong cách sáng tác của nhiều lớp nhạc sĩ kề cận.

Âm nhạc trở thành thứ vũ khí sắc bén mà Lưu Hữu Phước đóng góp cho ngày giang san hợp nhất. Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước   Nếu có dịp đặt chân về Ô Môn, chứng kiến sự bình yên của nhằng nhịt sông ngòi và sự hùi hụi chân chất của dân cày, thì bằng suy luận thường nhật kiên cố không ai lý giải được, vì sao cậu bé Lưu Hữu Phước ngày nào chỉ được cha dạy cho chơi đàn kìm bên rạch Bằng Lăng lại có thể tự mày mò học hỏi để đeo đuổi và thành công ở loại thể hành khúc vốn chỉ thân thuộc với âm nhạc phương Tây.

Năm 1946, Lưu Hữu Phước được điều động ra miền Bắc nhận nhiệm vụ mới.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét